" Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt." ( http://nguyenphunepal.blogspot.com/ )
a/ẤN ĐỘ GIÁO (HINDUISM)
b/Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ.
c/ Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
d/Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
1-Mastya: Con cá từng bảo vệ cho Manu, thuỷ tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ.
2-Con rùa Kurina (kurma): chở hòn núi Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa.
3-Varaha: Con heo rừng đã cứu cả trái đất.
4-Narasimha: hoá thân sư tử vương giết chết con quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana.
5-Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con quỉ Bali
6-Parasurama: người tạo ra tầng lớp Satđếlỵ mới.
7-Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
8-Thần Krisna: vị thần tài năng với cây sáo mê hồn.
9-Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính.
10-Kalkin (Kali Yuga) : Hoá thân thứ 10 này sẽ hiện ra cuối kỷ nguyên hiện tại để lập ra kỉ nguyên mới.
* Nữ Thần Tuyết Parvati .
* Nữ thần Durga .
*Thần Kali .
* Thần Uma .
6/Thần Indra.
9 / Thần Garuda (đại bàng kim sí điểu) – con chim thần huyền thoại. Là vật cưỡi của thầnVishnu .
10/ Thần Khỉ Hunuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành
11/Rắn thần Naga.
12/ Thần Hamsa - Là một con ngỗng hay con thiên nga .
13/ Thần Bò Kamđênu .
14/ THẦN MẶT TRỜI SURYA.
15/Một vài nét về sử thi ấn độ mahabharata và ramyana .
Kể từ thế kỷ 16 các nhà truyền giáo và du phương thường nhắc đến tôn giáo và phong tục tại Ấn Độ và thường gọi người bản xứ này là “ngoại đạo” (en. pagan, de. Heiden) nếu họ không tự nhận là theo một trong tôn giáo lớn. Họ được gọi theo tiếng La Tinh là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng Anh là gentoo và tiếng Hà Lan, tiếng Đức là Heyden(Heiden). Đến thế kỷ 18 thì từ “Hindoo” (tiếng Ba Tư Hindu) bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỷ 19, danh từ “Hinduism” trở nên rất thông dụng.
Như vậy thì từ “Hinduism” – được dịch là Ấn Độ giáo ở đây – không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo (Neo-Hinduism) trong thế kỉ 19 và thế kỷ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.
Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư Hindoo (Hindu) chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư “Hindu” chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hi Lạp là “Indian”, và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ (tiếng Phạn : sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hi Lạp : Indós), đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này : Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ (india). Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.
Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh). Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.
Một cách gọi thường gặp nhưng không chính thức và cũng không chính xác của tín đồ Ấn giáo là Sanātana-dharma (सनातनधर्म), nghĩa là "Pháp trường tồn". Các tên khác như vaidikadharma (Ấn giáo Phệ-đà) hoặc brāhmaṇa, brāhmaṇya (Bà-la-môn giáo) chỉ nêu được những nhánh của Ấn Độ giáo mà thôi.
Tôn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ (Indus Valley Culture, hưng thịnh khoảng 2300-1750 TCN) chỉ có thể được dựng lại một cách khiếm khuyết từ các công trình khảo cổ. Nhìn chung thì các cách diễn giảng những di tích này đều nhất trí ở điểm là những thành phần của nền văn hoá Indus vẫn tiếp tục tồn tại và có phần được hấp thụ bởi những tôn giáo cổ điển khác của Ấn Độ. Các hình tượng trên những con ấn bằng đá steatite (talc) ở những nơi như Mohenjodaro, Harappa và những khu định cư khác cho thấy những vị thần cây, được các nhà nghiên cứu xem là tiền thân của các loài La-sát (zh. 羅剎, sa. rākṣasa) và La-sát nữ (zh. 羅剎女, sa. rākṣasi) sau này. Một hình Thần thể (zh. 神體, sa. devatā) trong tư thế ngồi của một hành giả Du-già cho thấy là có thể nguồn gốc của Du-già bắt đầu từ thời văn minh Indus. Người ta cũng tìm thấy một Thần thể ngồi giữa đám thú, được xem là Thú chủ (zh. 獸主, sa. paśupati), "chúa tể loài cầm thú" và - có thể là sai - tiền thân của thần Thấp-bà (sa. śiva). Hình tượng được xem là dương vật dựng đứng (sa. liṅga, en. phallus) của Thấp-bà có lẽ chỉ là một sợi thắt lưng lõng và vì những thần thể này mang trang vật trên cánh tay nên các nhà khảo cổ chưa xác định được đây là hình tượng nam hay nữ. Tắm rửa theo nghi lễ giữ một vai trò quan trọng vì có nhiều dấu tích của những nhà tắm trang trọng được xây rất công phu (có thể được hấp thụ bởi các nhánh tôn giáo Ấn Độ sau này dưới dạng cái ao ở đền thờ). Tuy nhiên, người ta không tìm thấy dấu tích của một ngôi đền thờ nào. Việc diễn giảng những vòng đá như dương vật Thấp-bà và âm hộ (nền của các vòng đá) và các tượng phụ nữ bằng đất nung như các vị Thiên mẫu vẫn là những phỏng đoán.
Tôn giáo Phệ-đà mất vị trí hàng đầu ở Bắc Ấn trong những thế kỉ cuối trước CN, tại Nam Ấn thế kỉ thứ nhất. Nó vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong một phạm vi hạn chế và gây ảnh hưởng nhất định trong lĩnh vực triết học dưới dạng Di-mạn-sai (zh. 彌曼差學派, sa. mīmāṃsā). Sau sự phát hiện Phệ-đà của các nhà nghiên cứu châu Âu và được kích động bởi tâm tư hào hứng truy nguyên của họ, người Ấn Độ cũng đã quay về với giáo lí Phệ-đà với những dấu hiệu rõ rệt trong trào lưu Tân Ấn Độ giáo cải cách sau này.
( http://vi.wikipedia.org/wiki).
- Hình thành trên cơ sở xã hội có sự phân chia về giai cấp, không có sự bình đẳng về giai cấp sâu sắc.
- Là những tôn giáo không có người sáng lập.
2. Điểm khác nhau:
a) Đạo Bàlamôn
- Đạo Bàlamôn ra đời sớm hơn đạo Hinđu. Nó bắt đầu vào khoảng thế kỉ đầu của thiên kỉ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng cấp ngày càng sâu sắc. - Đạo Bàlamôn còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy do tập hợp từ các hình thức tín ngưỡng dân gian.
- Không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.
b) Đạo Hinđu
- Đạo Hinđu ra đời muộn hơn. Đến khoảng thế kỉ VII, khi mà đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Thì đạo Hinđu đã ra đời trên cở sở của đạo Bàlamôn. Nhưng đạo Hinđu cũng đã có thêm những yếu tố mới.
- Vì ra đời muộn hơn nên đạo Hinđu có tổ chức giáo hội chặt chẽ hơn và dấu tích nguyên thủy cũng mờ nhạt hơn.
II. Đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn và đạo Hinđu.
1. Điểm giống nhau: Đạo Hinđu và đạo Bàlamôn về cơ bản giống nhau về đối tượng sùng bái, điều đó được thể hiện như sau:
• Đều là các tôn giáo đa thần
• Cùng thờ một số vị thần như: Thần Brama (Vị thần sáng tạo thế giới), Thần Siva (vị thần phá hoại), thần Vinus (Vị thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt).
• Hai đạo này đều có sự phân chia thành hai phái là: Phái thờ thần Visnu và phái thờ thần siva.
• Một số loài động vật cũng là đối tượng sùng bái của hai đạo này: trong đó phải kể đến khỉ và bò.
• Ngoài ra còn có các thần: Thần đá, thần cây, thần lửa...
• Đối với các đối tượng sùng bái của mình các hai đạo đều rất coi trọng và tôn kính được thể hiện thờ cúng, và cách thể hiện sự sùng bái của tín đồ.
2. Điểm khác nhau:
Về cơ bản đạo Hinđu và đạo Bàlamôn giống nhau về một số đối tượng sùng bái song cũng có những điểm khác nhau nhất định ở hai đạo này.
a) Đạo Bàlamôn:
-Vai trò của thần Brama giữ vị trí cao nhất. Nhưng vị trí đó không hoàn toàn thống nhất mà ở một số nơi thì coi thần Siva hoặc thần Visnu là cao nhất.
-Để thống nhất các phái đó thì đạo Bàlamôn đưa ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.
- Bò là loài động vật rất được sùng bái.
b) Đạo Hinđu
-Khác với đạo Bàlamôn, đạo Hinđu bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái được thể hiện như sau: Vẫn là thờ ba vị thần: Brama, Visnu, Siva. Tuy nhiên vị trí các vị thần này đã có sự đổi khác. Vai trò của thần Brama bị hạ thấp và vai trò của thần Siva được đề cao.
-Hình tượng của các vị thần thường rất kì dị như: Nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay...
Khác với đạo Bàlamôn:
+ Thần Brama được thể hiện bằng hình tượng có bốn đầu chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi.
+ Thần Siva được thể hiện bằng hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, thần Siva ở đây lại có thêm mặt sáng tạo thể hiện qua linga - yoni.
+ Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali - vợ thần, thần Ganexa - con trai của thần. Nữ thần Siva được thể hiện bằng hình tượng một người phụ nữ mặt đen, miệng há ngoác, lưỡi lè ra. Thần Ganexa thì thể hiện là hình tượng có hình thù kì dị đầu voi mình người nhưng đó là thần trí tuệ và thần thịnh vượng.
-Thần Visnu được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Lần thứ 9 thì thần Visnu biến thành Phật Thích Ca. Đây là điểm khác với đạo Bàlamôn và nó chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút tín đồ Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Lần giáng trần cuối cùng
thì thần Visnu biến thành thần Kali. -Đạo Hinđu có sự giải thích sâu sắc cho nguyên nhân tại sao lại tôn thờ các loài đồng vật. Ví dụ: Thần khỉ sở dĩ được tôn sùng là vi có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hunuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Thần Bò Kamđênu được thần Krisna chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần bò còn được coi là mẹ của hầu hết các vị thần. Vì vậy cho đền nay ở Ấn Độ bò được coi là loài vật thiêng liêng. Sự tôn sùng đối với các vị thần và các loài vật ở đạo Hinđu có phần cao hơn trước. Ví dụ: Tín đồ đạo Hinđu kiêng ăn thịt bò, không dùng những đồ làm bằng da bò; Mỗi buổi sáng tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phải Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò hoặc đeo ở cổ tay cái Linga; trong các chùa thờ lớn thì có tới hàng nghìn tu sĩ và hàng nghìn vũ nữ; Khi tế lễ các tu sĩ thường xoa dầu, sức nước hoa cho tượng ...
Về cơ bản đạo Hinđu và đạo Bàlamôn tương đối giống nhau về đối tượng sùng bái. Tuy nhiên đạo Hinđu là đạo xuất hiện sau và là kế thừa đạo Bàlamôn nên đạo Hinđu có sự phát triển hơn đạo Bàlamôn.
Giáo lí đạo Bàlamôn và đạo Hinđu.
1.Điểm giống nhau:
- Cùng chú trọng thuyết luân hồi. Cho rằng con người sau khi chết linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần.
- Sử dụng bộ kinh Vêđa
- Quan niệm về sự phân chia đẳng cấp trong xã hội: phân thành bốn đẳng cấp (chế độ đẳng cấp Vacna).
- Đạo tuyên truyền thuyết luân hồi và nghiệp báo, tổ chức các nghi lễ cúng tế thần thánh xa xỉ.
2. Điểm khác nhau:
a) Đạo Bàlamôn: - Có một quyển kinh duy nhất là kinh Vêđa
b) Đạo Hinđu: -Có sự bổ sung nhiều quyển kinh thánh mới: Mahabharata, Ramayana, Purana…
- Quy định thêm các chuẩn mực, luật lệ xã hội, hình phạt... một cách tỉ mỉ. Những quy định của đạo Hinđu đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Ấn Độ.
Đạo Bàlamôn và đạo Hinđu về giáo lí cơ bản giống nhau. Sau khi đạo Phật suy sụp, đạo Bàlamôn đã nhân tình hình đó dần dần được phục hưng,Thế kỉ VII - IX đạo Bàlamôn với tên gọi mới là đạo Hinđu - một tôn
giáo chính của Ấn Độ ngày nay gọi là Ấn Ðộ giáo. Ðặc biệt Bàlamôn hay Ấn Ðộ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ với sự bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, nghi thức tế lễ... nhưng về cơ bản vẫn chú trọng về thuyết luân hồi, coi trọng sự phân chia đẳng cấp dựa trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ còn xuất nhiều các đẳng cấp nhỏ gọi là Jati. Bàlamôn – Hinđu (Ấn Độ giáo) đã góp phần trong tôn giáo Ấn Độ nói riêng và trong văn minh Ấn Độ nói chung, văn hoá Bàlamôn đã sớm ghi dấu ấn ở Srilanka và các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, hiện nay vẫn còn đền thờ và các tín đồ ở các nước này. Bàlamôn cũng có ở 1 số nước Phương Tây như Anh, Mỹ… Tuy tín đồ ở Đông Nam Á của Hinđu chiếm
tỉ lệ thấp nhưng do Phật giáo (chiếm đa số trong dân cư) chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Hinđu (thuyết luân hồi) nên có thể coi cư dân Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hinđu một cách gián tiếp. Tìm hiểu, so sánh về đạo Bàlamôn - Hinđu giúp ta hiểu hơn, biết rõ hơn những nét trong văn minh Ấn Độ. Đúng vậy,
xúc cảm đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể chứng nghiệm chính là sự bí ẩn. Đó là loại xúc cảm ở ngay tại cái nôi của tất cả mọi nghệ thuật chân chính và khoa học. Những nét đẹp đó chúng ta có thể tìm thấy ở nền văn minh - tôn giáo của người Ấn Độ.
( nội dung được trích dẫn từ 123doc.org ).
Xin theo dõi tiếp bài 2. dienbatn giới thiệu.
Post a Comment
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.